Thứ Hai, 10 tháng 2, 2014
Mẩu chuyện nhỏ về đại tướng Võ Nguyên Giáp
Đại tướng gặp lại bạn cũ đồng canh Vẫn là người con của đồng quê xứ Lệ Đại tướng xa quê Lệ Thủy (Quảng Bình) từ năm 14 tuổi khi vào học ở Quốc học Huế và sau đó đi làm cách mệnh. Dù rất ít khi về Lệ Thủy nhưng giọng nói của ông khi giao tiếp với đồng chí, đồng bào ở quê không hề bị lai tạp. Đại tướng dùng nhiều phương ngữ khiến chúng tôi bất ngờ. Khi nhắc đến chiếc phản thường nằm thời tuổi thơ, ông nói với tôi: - Chắc nó thất lạc mô đó trong thôn, các cháu tìm chuộc nó về! Khi nói về khu vườn, ông bảo: - Nương nhà mình trước đây kéo dài ra tận ngoài mưng tề ! (Vườn nhà mình ngày xưa kéo dài ra tận ngoài cây lộc vừng kia!) Khi dự xem đua bơi trên dòng Kiến Giang (8/1999), Đại tướng quay sang hỏi các anh lãnh đạo xã và thôn: - Đò mềng thứ mấy? Đây là câu cửa miệng của dân Lệ Thủy khi hỏi nhau về đẳng cấp đò bơi, đò đua của làng mình xếp trật tự bao lăm. Chắc bạn đọc và nhiều người tò mò muốn biết khi mỗi lần ra Hà Nội, chúng tôi có quà gì biếu Đại tướng. Xin thưa là rất đơn giản: Món quà ông thích nhất là chai tinh dầu tràm. Thứ tinh dầu được chưng cất thủ công từ cây tràm, loại cây mọc rất nhiều vùng đồi Lệ Thủy. Loại dầu này là thứ chủ lực chống cảm mạo ngày xưa được người dân chuộng. Bây chừ lớp trẻ như chúng tôi ít dùng nhưng Đại tướng thì vẫn thích và giữ lề thói này cho tới cuối đời. Ngoài chai dầu tràm, nếu có thêm thì vài chai mật ong lấy từ rừng miền Tây của huyện. Thêm một ít tép phơi khô và bao gạo của lúa tái sinh, thứ gạo sạch tuyệt đối vì không bón bất cứ thuốc trừ sâu nào, là thứ rất sẵn của quê An Xá. Nhiều lần tiếp xúc, tôi không thấy vẻ oai nghiêm, đạo mạo của một vị Đại tướng, một vĩ nhân mà thấy toát lên vẻ bình dị trong cách nói năng, hành xử của một người ông thuần phác, chân chất của vùng quê gió Lào cát trắng. Ngày 12/2/2002, Đại tướng và gia đình về thăm quê, nghỉ lại nhà khách cơ quan Huyện ủy. Lúc đó tôi đang phụ trách việc trùng tu nhà và vườn nên đang muốn gặp để hỏi thêm vài chi tiết nhưng lịch làm việc của Đại tướng đã kín. Đồng chí bí thơ Huyện ủy nói nếu chú muốn gặp riêng thì sáng mai sang ăn sáng và tranh thủ làm việc luôn. Bữa sáng hôm đó chỉ có Đại tướng, phu nhân Đặng Bích Hà, chị Hồng Anh và mấy người nữa. Nhà bếp bưng lên mỗi người một bát cháo bồ câu hầm và vài món ăn nhẹ. Tự tay bà Đặng Bích Hà xé nhỏ từng miếng thịt bỏ vào bát cho Đại tướng và luôn giục ông ăn đi cho nóng. Nhìn hai mái đầu bạc bên nhau, tôi không còn thấy một vị Đại tướng oai hùng và một nữ Giáo sư khả kính mà chỉ thấy sự ấm cúng, ân cần và hạnh phúc của một vài vợ chồng già tâm đầu ý hợp đến tận chặng cuối của thế cục. Trí tưởng tiệt của một vĩ nhân Tháng 11/1983, khi về quê, Đại tướng đến thăm trường cấp 3 Lệ Thủy. Trong vòng vây học trò và cán bộ, càn của trường cùng dân chúng chào đón, ông rẽ đám đông đến trước một ông già thấp đậm, quắc thước, râu tóc bạc trắng và cất tiếng hỏi: - Tôi trông cụ quen quen? Có phải cụ là Choạc không? Cụ già lúng túng: - Thưa ngài… đúng ạ! Đại tướng ngắt lời: - Xin cụ đừng gọi như vậy. Năm nay cụ bao nhiêu tuổi? - Dạ thưa, tôi 71 tuổi. Đại tướng nói: - Tôi 73. Chúng ta là bạn đồng canh! Sau khi Đại tướng đi rồi, mọi người mới biết. Ông Lê Choạc, người làng Phan Xá khi còn thanh niên thường về cấy, gặt thuê vùng An Xá, trong đó có nhà cụ Võ Quang Nghiêm. Vào các dịp nghỉ hè, cậu Giáp học ở Huế thường về quê. Trong đám người làm, ông là người làm khỏe, vui tính, hay hát hò nên trổi hơn cả. Gần nửa thế kỷ trôi qua, trong đám đông, Đại tướng vẫn nhận ra người quen cũ. Sự khôi hài của Đại tướng Đại tướng đang xem hò khoan Lệ Thủy. Ảnh: Đ.T.T Trong bộ phận trùng tu, sang sửa nhà Đại tướng có anh Sư, kỹ sư xây dựng phụ trách công việc thiết kế. Trong lần đầu chúng tôi ra làm việc, có thủ tục giới thiệu danh tính từng người với Đại tướng và phu nhân. Khi đến anh Sư, đồng chí bí thơ Huyện ủy nói: - Thưa bác, đây là anh Võ Giáo Sư ! Ông hỏi ngay: - Giáo sư là học hàm à? - Thưa Bác, đó là tên khai sinh ạ! Mọi người đều cười vui vẻ. Buổi làm việc trở thành thân tình, đầm ấm, thiên nhiên nhờ câu hỏi đùa của Đại tướng. Sau khi làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền dùng đất (sổ đỏ) cho khu vườn xong, huyện điện báo cáo và xin đưa ra Hà Nội cho Đại tướng. Ông không đồng ý và bảo khi có dịp sẽ về để nhận. Tháng 8/1999, Đại tướng và gia đình về thăm quê. Tại Văn phòng Huyện ủy, khi nhận từ tay đồng chí Đoàn Kim Xử, chủ toạ UBND huyện tấm sổ đỏ, ông nói: - Tôi đang thực hiện lợi quyền và nghĩa vụ của một công dân đây! quờ quạng chúng tôi đều cười vui vẻ. Sự công tâm và chu đáo của Đại tướng Cụ Võ Quang Nghiêm, thân sinh của Đại tướng là liệt sỹ. Khi tìm được mộ Cụ và đưa từ Huế về (1977), hài cốt Cụ được đưa vào tha ma liệt sỹ huyện. Khi thiết kế tha ma, huyện đã chừa hai ô ở khu các anh hùng, có ý sẽ táng hai thân Đại tướng. Khi biết chuyện, Đại tướng nói: - Cảm ơn nhã ý của lãnh đạo huyện, nhưng ông thân tôi là liệt sỹ thường ngày nên chẳng thể đặt ở khu vực dành cho các anh hùng. Còn mẫu thân tôi là người dân, không thể đặt vào nghĩa trang liệt sỹ. Theo lời Đại tướng, Cụ thân sinh được đặt ở cạnh khu vực các anh hùng liệt sỹ, còn thân mẫu được chôn cất phía ngoài nghĩa trang, cách khuôn viên vài chục mét. Mộ của bà nằm khiêm nhường bên cạnh những ngôi mộ khác. Từ việc của gia đình, Đại tướng đã thực hiện lời dạy của Bác Hồ mà khi chuyện trò với cán bộ ông thường nhắc lại: Người cách mệnh phải “dĩ công vi thượng”! Khi công việc trùng tu căn bản hoàn thành, Đại tướng về thăm nhà (11/4/2002). Ngồi giữa nhà, trong sự rộn ràng, nhiệt thành của bà con đến chào đón, Đại tướng không quên cho gọi ông Đặng Đại Trung, Giám đốc đơn vị thi công vào hỏi han thân tình. Khi biết ông Trung là cháu ruột ông Đặng Đại Múng, người thợ làm ngôi nhà này năm xưa nay vẫn còn sống, ông ân cần gửi lời hỏi thăm và cảm ơn ông Múng. Vì làm thuê việc có liên tưởng đến gia đình Đại tướng nên tôi được nhiều lần gặp ông. Lần sau hết được gặp là ngày 24/8/2005, khi Đại tướng đang điều trị tại Bệnh viện 108. Ông phải nằm phòng cách ly để điều trị theo chế độ đặc biệt và rất hạn chế tiếp khách nhưng khi nghe Đại tá Nguyễn Huyên báo có đoàn Lệ Thủy ra thăm, ông cho gọi vào phòng bệnh. Biết Đại tướng mệt nên đồng chí Chủ tịch UBND huyện chỉ nói lời chúc thọ. Dù cuộc gặp chỉ kéo dài mươi phút và dù đang rất mệt, ông vẫn ngồi cho chúng tôi chụp ảnh chung để làm kỷ niệm. Tết Đinh Hợi (2007), khi đó Đại tướng đã yếu mệt nhưng tôi khôn xiết cảm động khi nhận được tấm thiếp Chúc Tết có chữ ký tươi của ông. Tôi có nhiều bức ảnh chụp với Đại tướng nhưng tấm ảnh ở Bệnh viện 108 và tấm thiếp chúc hạ năm mới của ông tôi luôn giữ gìn, nâng niu như bảo vật. Một con người vĩ đại, ân tình ngay từ những việc làm bình thường! Cảm ơn thiện chí của lãnh đạo huyện, nhưng ông thân tôi là liệt sỹ thường ngày nên chẳng thể đặt ở khu vực dành cho các anh hùng. Còn mẫu thân tôi là người dân, chẳng thể đặt vào tha ma liệt sỹ.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét