Thứ Ba, 4 tháng 2, 2014
Nhà văn Ma Văn Kháng và những kỷ niệm về người thầy NGND Nguyễn Lân
Nhà văn Ma Văn Kháng xúc động khi kể về người thầy của mình – NGND. GS. Nguyễn Lân. Cuộc thế và sự nghiệp của nhà văn có một thời gian gắn với người thầy của mình, thành công của nhà văn chẳng thể không kể đến công lao dạy bảo của NGND. GS. Nguyễn Lân. Bài viết dưới đây của nhà văn Ma Văn Kháng biểu thị tình cảm sâu sắc với người thầy đáng kính của mình. Nhà văn Ma Văn Kháng kể! Có bao nhiêu người đã là học sinh ngồi trong các lớp học, được hàng ngày hàng giờ nghe thầy Nguyễn Lân bảo ban? Có bao nhiêu người được là học sinh thầy theo cái nghĩa được cái ân ông thầy là người dẫn lộ? Có cả triệu người! Tôi là một kẻ được hưởng cái vinh dự của cuộc thế- được làm học trò – được hưởng cái sung sướng của một thời trẻ dại, được là học trò trực tiếp của thầy Nguyễn Lân. Được nghe thầy dạy. Được thầy uốn từ cách dùng từ, ngắt câu trong nói năng, viết lách. Đó là những năm đầu của thập kỉ 50 thế kỉ trước. Tôi cùng các nhà văn, nhà báo Hoàng Tiến, Bùi Công Hùng, Nguyễn vẻ vang, Đào Dậu…và nhiều bạn học khác theo học trường sư phạm Trung cấp khoa học tầng lớp ở khu học xá, Nam Ninh, Trung Quốc. Thầy dạy chúng tôi là giáo sư Đinh Gia Khánh và Hoàng Như Mai. Dạy Sử là thầy Trần Văn Khang, danh xưng thân tình hàng ngày là Ba Khang. Thầy dạy Địa lí là giáo sư Lê Bá Thảo và thầy dạy Tâm lí – Giáo dục học là thầy Nguyễn Lân. Toàn các tên tuổi làm danh giá cho nền giáo dục quốc gia! Riêng thầy Nguyễn Lân đa tài, nhiều buổi thầy còn dạy cả môn Văn và Sử. Hơn nửa thế kỉ đã qua rồi nhưng ấn tượng về những bài thầy Nguyễn Lân dạy vẫn chưa hề phai mờ trong kí ức tôi. Nhà văn Ma Văn Kháng vẫn nhớ như in những kỷ niệm với người thầy - NGND. GS. Nguyễn Lân. Ảnh Xuân Trung Cho đến lúc đó , quả tình, tôi chưa thấy ai có thể dạy hay như thầy, đặc biệt là môn Tâm lí- Giáo dục học, một môn học mới lạ còn chưa thoát khỏi những khái niệm khô khan. “Nhớ những giờ ra chơi, ắt chúng em đều không muốn thung thăng chạy nhảy, chỉ thích ngồi quây lại bên thầy, xin thầy giảng tiếp vì thầy dạy hay quá…”. Đó là trích đoạn một lá thư của mấy cô cựu học trò Trường Đồng Khánh (Huế) đã vào tuổi 70, đang ở Paris gửi cho thầy Lân tháng 8/1990. Một giọng nói thanh trong, trẻ trung, một nguồn sinh lực tràn đầy trong từng âm tiết. Một tâm sự thiết tha hướng vào đối tượng thân thương là học trò. Một khối lượng tri thức uyên thâm có được sau những mê mải, nhẫn nại. Vơ tạo nên một trường hấp dẫn, một sức hấp dẫn mãnh liệt. Kỉ niệm trước hết về thầy và cũng là bài học quý giá trước hết tôi thu nhận được từ thầy, để trở nên tâm niệm đinh ninh trên bước đường làm thầy và sau đó là làm nghề viết văn của tôi là vậy. Là một con người trước hết hãy tạo ra một ma lực, bằng sự tỏa sáng từ nội lực và tâm hồn mình! Tháng 5 năm 2000, nhận lời viết một bài về thầy Nguyễn Lân để in trong cuốn “Những người lao động sáng tạo của thế kỉ”, đây là tên một seria sách viết về các danh nhân giang san, tôi xin đến gặp thầy. Sau gần 50 năm rồi còn gì, kể từ ngày được học thầy ở trường Sư phạm. Vậy mà thầy vẫn còn nhớ tôi. “Ông hiện đã là nhà văn lừng danh rồi nhỉ?” Tay bắt mặt mừng thật bình đẳng không chút cách bức. Thầy nói, tôi sượng, thấy mình bé nhỏ như ông Carnot trong chuyện xưa về thăm xuân đường cũ, rụt rè đáp: Dạ, thưa thầy, đó cũng là nhờ cái lộc được học thầy, được nhận từ thầy cái phẩm tính tinh khiết và nhiệt liệt của một nhà văn từ thuở khơi nguồn nền văn xuôi đương đại nước ta. Thầy cười nhè nhẹ và rót nước mời tôi. Hai thầy trò ngồi trên một cái giường đơn gỗ mộc rải chiếc chiếu cói đã sờn. Một căn buồng nho nhỏ, cũ kĩ trong khu tập thể Kim Liên, nhà cửa thảy đã qua kì khấu hao. Một không gian tĩnh thăng bình. Dung dị và thanh đạm. Thì vẫn là cốt cách của những văn nhân với một hệ giá trị đã được chế định. Vâng, thì vẫn là tinh cốt của danh nhân khi vào câu chuyện, với một bầu không khí chan hòa và một sức truyền dẫn không gì có thể cưỡng lại được. Thầy Lân kể chuyện đời mình. Kể bằng một giọng trẻ trung đến bất ngờ. Có cảm giác đó là những ẫm thanh của giọng thầy cách đây nửa thế kỉ. Thầy không biết già. Thầy trẻ trung trong cảm hứng nghề thầy, trong gắn bó với cuộc thế. “Khổ quá, xin đừng gọi tôi là anh. Tôi đã 90 rồi”, đó là lời thầy nhắc mấy cô tổng đài điện thoại ở khách sạn Sài Gòn hồi thầy vào đó họp ban Chấp hàng Trung ương Mặt trận giang sơn. Mấy cô này văn kì thanh bất kiến kỳ hình. Mà lại thôi, khỏi phải dài dòng nhắc lại đây quờ những gì đã được thấy, được nghe từ thầy. Vì xúc cảm dâng chàn biến hóa thành lời văn, trong một đà văng hiếm có của một ngọn bút đang có cơ hội xuất thần, tôi đã hoàn thành một bài bút kí dài 5000 chữ, nhan đề: “Nguyễn Lân, trọn đời với nghề thầy”, kí bút danh là Khánh Hoan, in trong tập 3 của loạt sách nói trên. Vợ chồng NGND. GS Nguyễn Lân Trong bài đó, có đoạn nhà văn Ma Văn Kháng viết: “Sinh năm 1906, khai triển đến cùng cái tài và tình trong một cuộc đời dài xuyên gần hết thế kỉ, vào năm 2000, kỉ niệm đại thọ 95 tuổi, thầy Nguyễn Lân đã là một nhà văn sáng giá những năm 30 của thế kỉ trước, một bậc đại lão, một người ông, một người cha, nêu cao gương sống mẫu mực trong một gia đình con cái đều thành đạt, một nhà ngữ pháp học, một nhà biên soạn tự vị, một nhà quản ngại giáo dục và một nhà hoạt động tầng lớp có tài, một trí thức yêu nước, yêu dân chúng và trên hết, một nhà giáo mô phạm, bậc sư biểu, người đã góp công xây dựng nền giáo dục Việt Nam, người thầy đã đào tạo nhiều thế hệ học trò thành những nhân kiệt của giang san”. Giá trị của một con người là những năm tháng dâng hiến và những gì người đó để lại cho đời. Bắt nguồn thật sâu vào đạo lí làm người của dân tộc, thầy, từ những năm xa xưa, trong thế đơn phương độc mã, độc hành kì thiện, một thân một mình đề xuất chủ trương “tiên học lễ, hậu học văn” trong trường. Giờ đây khi đã cao tuổi, lòng thiết tha với sự học hành của con em ở nơi thầy được mô tả tụ hội ở công việc rất căn bản là biện soạn tự điển. Miệt mài với công việc và ngày tháng, ngẩng lên nhìn lại đoạn đời qua, khi đã vào tuổi đại lão, đã có người giật mình thay thầy: Bộ óc lớn không nghỉ ngơi của thầy với một nỗ lực phi thường đã soạn thảo liên tiếp tới 10 cuốn tự vị đồ sộ, một tổng thể cần lao lớn lao, những cuốn sách kết tinh nền tảng của học vấn, có tiếng vang ra cả các nước bạn bè. Đã tưởng viết thế là đã đến cùng tận của sự kiện rồi. Thế mà không. Ngẫm lại mới thấy, vùng thẩm mĩ để khám phá về ông thầy mình còn dài rộng hơn thế nhiều. Và sức thấu của mình còn kém cỏi lắm. Giờ thì, với nhãn quan của một kẻ viết văn, tôi mới nhận ra cuộc thế ông thầy mình phong phú và đẹp đến viên mãn, kì lạ quá. Trời ạ, thật là thế đấy, cả một thế cục dài dằng dặc xuyên suốt suýt soát một thế kỉ mà đâu có phải sống chỉ là tồn tại theo cái nghĩa sinh vật học là ăn, ngủ hít thở! cố nhiên, giá trị cuộc sống không chỉ tính bằng thời gian, nhưng lại rất cần thời gian để lượng hóa thành chất. Sống – với thầy tôi – là làm việc, là óc nghĩ tay viết cho đến phút cùng tận khi con tim ngừng đập, là cháy tới cùng tận giọt dầu ngọn bấc. Từ 90 đến 95 tuổi, là thời kì hặm hụi mỗi ngày để làm xong bộ từ điển khổng lồ 2110 trang in. Trên trần giới này hỏi có mấy người được như ông cụ. Người như thế đã thành thần tựng, thành huyền thoại của trần giới rồi còn gì? Chẳng có ai tẻ nhạt trên đời. Mỗi số phận gắn liền với lịch sử. Đó là hai câu thơ của E.Evtoushenko. Tẻ nhạt thì hoàn toàn không rồi.Trái lại là khác. Vì gắn với lịch sử từng bước một thì đúng là mỗi trang tiểu sử đời thầy rồi. Thầy là một phần biên niên sử của cái ngành nghề trồng người cao quý của nước ta. Cái chung thì có sức khái quát, còn cái riêng thì làm phong phú cho cái chung. Đời thầy điểm tô cho lịch sử nghề thầy nguy nga thêm sao. Thủy ư vi sĩ. Chung ư vi thánh nhân. Bắt đầu là học trò, rốt cục là người thánh. Đó là lời Khổng Tử. Bạo dạn tôi nghĩ, đời ông cụ thầy mình có nét na ná vậy. 98 tuổi đời. Là học sinh của các bậc đại sư như Dương Quảng Hàm, Bùi Kỉ, cùng các danh sư Đặng Thai Mai, Đào Duy Anh, Tôn Quang Phiệt, Tạ Quang Bửu,….Khai mở nền móng giáo dục quốc gia. Góp phần tạo dựng đầu đuôi văn chương nước Việt thời đương đại. Cứng cỏi đối mặt với bè lũ quan học thực dân tàn nhẫn. Chạm mặt với vua bù nhìn Bảo Đại. Hoan hỉ chào ngọn cờ đỏ sao vàng phất phới trên cửa Ngọ Môn Huế ngày cách mạng tháng 8 năm 1945. Kết liên cùng bạn bè đồng chí chung tay sức gây dựng phong trào khai mở dân trí.Ruổi rong một mình con ngựa sắt trên con đường rừng trong vai người chủ trì ngành giáo dục Khu 10. Đứng trên bục giảng quảng bá bao điều hay lẽ phải. Dạy dỗ bảo ban hình thành bao tuấn kiệt cho sơn hà.Vật lộn với từng con chữ, chắt chiu từng giọt kiến thức, trứ tác đẳng thân, cao hẳn bằng người chứ đâu có ít. Nuôi dạy từng ấy người con trở nên những tài năng của đất nước. Một đời là chứng nhân của bao biến thiên trầm bổng của vận mệnh non nước dân tộc. Trải bao vui buồn, hạnh phúc, khổ đau, kể cả có lúc rơi vào cơn phân tâm, lo sợ..Vẫn một dạ trung trinh, vẫn một hồn cốt, tư cách trong xanh, một tình yêu con người và sơn hà. Thầy tôi – một tập đại thành! Một tầm vóc đang được đo lường tiếp. Thầy tôi, những trang đời phong phú, hoa lệ hiếm hoi. Thầy tôi – một hình tượng cao đẹp của văn chương. Nói đến thầy như một hình tượng của văn chương, tôi muốn tỏ bày ước ao mình. Một bạn đọc bảo tôi: Nước ta, cho đến nay về thời hiện đại, tức khắc điểm chúng ta đang sống đây, có thể kể tên cả loạt các tên tuổi được ghi nhận là danh nhân, là nguyên khí quốc gia, sao không thấy nhà văn các anh cho xuất bản loại sách về các cụ nhỉ? đoan với các nhà văn, đây là đòi hỏi chính đáng của độc giả. Hình ảnh lớp các cụ nhà mình đẹp lắm, đừng nên để mất đi. Thế đấy, văn học hơn rất nhiều loại thể khác, là nơi lưu giữ đặc hiệu, chân xác nhất bóng hình thế cuộc và con người. Văn chương mang sứ mạng lớn lao là truyền cảm, là nơi nuôi dưỡng tâm hồn con người, văn học đem đến cho con người ta những cảm xúc mãnh liệt, cho ta tận hưởng vẻ đẹp từ đó tỏa ra. Từ lâu rồi, thế giới đã có loạt sách về các danh nhân. Những Galile,Niuton, Anhxtanh…Còn ta, dữ kiện trong kho lưu trữ đã đầy ắp. Hiện giờ cần một chủ trương, một tổ chức, một hành động. Không thì rất phí hoài và thiệt thòi cho lớp hậu sinh./.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét